Hoàng Cầm – Công dụng và tính vị quy kinh

Hoàng cầm

Hoàng cầm chủ trị thanh nhiệt ở thượng tiêu và thấp nhiệt ở đại trường dùng trị các chứng cấp tính do nhiệt độc như sưng đau, ung nhọt, nhiễm trùng, suyễn, sưng phổi, tiêu chảy

Hoàng Cầm
Hoàng Cầm

Tên dùng trong đơn thuốc: Hoàng cầm, Sao hoàng cầm, Khô cầm, Phiến cầm, Đạm hoàng cầm, Điều cầm, Tử cầm, Đạm tử cầm, Tửu hoàng cầm, Tửu sao hoàng cầm (hoàng cầm sao với rượu)

Tên Latin: Radix Scutellariae
Tên Pinyin: Huangqin
Tên tiếng Hoa: 黄芩

Phần cho vào thuốc: Rễ.

Bào chế: Rửa sạch thái phiến dùng sống. Chữa ở trên thì sao rượu dùng, tả hỏa ở can, đởm thì sao với nước mật lợn.

Tính vị quy kinh: Vị đắng, tính hàn vào sáu kinh: tâm, phế, can, đởm, đại tràng, tiểu tràng.

Công dụng: Tả phế hỏa ở thượng tiêu, thanh thấp nhiệt ở trong ruột.

Chủ trị: 

  • Chữa ho do phế nhiệt, lại có thể an thai.
  • Chữa đi ỉa chảy, lỵ đau bụng và hoàng đảm (vàng da) hoặc những bệnh nhiệt khác.
  • Chữa ung nhọt đầu đanh sưng tấy và mắt đỏ, sưng đau.

Ứng dụng và phân biệt: Rễ già của cây Hoàng cầm trong rỗng và khô gọi là Khô cầm hoặc Phiến cầm, thể chất nhẹ, đi lên, chuyên tả hỏa ở thượng tiêu chủ yếu chữa đờm nhiệt ở vùng ngực ức, ho suyễn vàng da. Rễ Hoàng cầm còn tươi mới đào, thì bên trong rắn chắc gọi là Tử cầm hoặc Điều cầm, thể chất nặng chủ đi xuống, chuyên tả hỏa ở hạ tiêu đại tràng, chủ yếu chữa bụng dưới căng trưởng, đại tiện ra máu tươi, đi lị.

Kiêng kỵ: Người tỳ vị hư hàn và không có thấp nhiệt thực hóa thì chớ dùng.[235]

Liều lượng: một đồng cân năm phân đến ba đồng cân.

Bài thuốc ví dụ: Bài Hoàng cầm thang (Thương hàn luận phương) chữa Thái dương với Thiếu dương hợp bệnh. đi lị. Hoàng cầm, Cam thảo, Thược dược, Đại tảo. Bốn vi trên cho nước vào sắc, bỏ bã, chia ra uống ấm (Trong sách Thương hàn luận kim thích của Lục uyên Lôi ghi: Thái dương với thiếu dương hợp bệnh, tự hạ lợi (đi ỉa chảy). Nhưng ở đây tác giả ghi là hạ lệ. Ở đây có 2 cách tham khảo: a) Nếu chỉ nói hạ lệ thì thiếu một vế hạ lợi mặc dù đều thuộc nhiệt. b) Chữ lợi và chữ ly đọc âm Trung Quốc cũng đều đồng âm Bắc kinh đọc là li, Quảng Đông đọc là lì. Vậy chúng tôi xin nêu để bạn đọc tham khảo. N.D.)

Tham khảo: Hoàng Cầm, Hoàng liên, Hoàng bá tuy cùng là vị đắng, tính hàn, màu vàng, song cái vị đắng của Hoàng cầm mỏng manh hơn, tính hàn nhẹ hơn, công dụng trừ nhiệt cũng kém hơn Hoàng liên, Hoàng bá.

0362.027.115