Đào Nhân:
Đào nhân có công dụng hoạt huyết, khử ứ, nhuận táo. Điều trị kinh nguyệt bế tắc, vón cục, bụng dưới đầy đau, té ngã ứ huyết.
Tên dùng trong đơn thuốc: Đào nhân, Đào hạch nhân, Đào nhân nê. (Đào nhân giã nát nhuyễn)
Tên Latin: Semen Persicae
Tên Pinyin: Taoren
Tên tiếng Hoa: 桃仁
Hoạt chất: Amygdalin, emulsin, oleic acid, glyceric acid, linoleic acid
Phần cho vào thuốc: Hạt nhân (Trong quả)
Bào chế: Bỏ vỏ, bỏ đầu nhọn, dùng sống hoặc sao với rượu.
Tính vị quy kinh: Vị đắng, ngọt, tính bình. Vào hai kinh: Tâm, can.
Công dụng: Phá huyết thông ứ, nhuận táo hoạt tràng.
Chủ trị: Chữa súc huyết đình ứ, Kinh nguyệt bế tắc thành báng, ngã sưng đau, đại tiện huyết kết, ung nhọt tấy sưng chưa vỡ thuộc ngoại khoa.
Ứng dụng và phân biệt:
1- Hồng hoa là hoa, chất nhẹ, đi lên, làm tan được các chỗ ứ huyết lúc tan lúc tụ ở kinh lạc. Đào nhân là hạt chất nặng, đi xuống, tiêu được ứ huyết ở từng chỗ (cục bộ)
2- Đào gặp được mùa xuân khí rất đậm, vào được phần huyết để biến ứ huyết hoại tử thành máu mới. Thuốc chữa về huyết phần nhiều thuộc mầu đỏ, mà Đào nhân thì mầu trắng. Những vị thuốc phá huyết khác công phạt – mạnh, Đào nhân thì tính hoãn lại thuần. Dùng nhẹ (ít) , có thể hoạt huyết và hành huyết, dùng nặng (nhiều) thì thể phá ứ và trục ứ.
Kiêng kỵ: Người không có ứ trệ không dùng. Nếu có ứ mà kiêm hư thì nên phối hợp dùng với thuốc bổ huyết.
Liều lượng: 1,5 đồng cần đến 3 đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Đào nhân thừa khí thang (Thương hàn luận phương chữa bệnh thuộc kinh thái dương không được giải, nhiệt kết lại ở bàng quang, người cứ như điên cuồng, bụng dưới kết cứng lại, đàn bà bị bại huyết ứ huyết) đọng lại và kinh nguyệt bế tắc.
Đào nhân (bỏ vỏ đầu nhọn), Đại hoàng, Cam thảo (trích), Quế chi (bỏ vỏ), Mang tiêu, cho 4 vị trên vào sắc lên, bỏ bã, rồi mới cho Mang tiêu vào, lại đun sôi nhỏ lửa bắc xuống, uống ấm trước khi ăn. Mỗi ngày uống ba lần
Lưu ý: Đào nhân và Hồng nhân gần giống nhau nên phân biệt cho đúng