Tứ khí ngũ vị trong đông y là gì?

Tứ khí ngũ vị trong đông y là gì?

Tứ khí ngũ vị là một căn cứ chủ yếu để nhận thức và vận dụng dược liệu, là một nội dung quan trọng học tập bản thảo:

Tứ khí

Tứ khí, tức là nói dược liệu có tính chất khác nhau như hàn, nhiệt, ôn, lương. Bệnh có chứng hàn, chứng nhiệt. Nói chung, những vị thuốc có thể chữa trị được chứng nhiệt thì được coi là có đầy đủ tính chất hàn lương, những vị thuốc có thể chữa trị được chứng hàn thì được coi là có đầy đủ tính chất ôn nhiệt. Hàn và lương, ôn và nhiệt chỉ là sự khác nhau trên mức độ. Cho nên có sách bản thảo đã không dùng lượng (mát) mà dùng hơi hàn (hơi lạnh), không dùng nhiệt (nóng) mà dùng đại ôn (ôn nhiều) để viết về dược tính (tính chất của vị thuốc). Cũng có những vị thuốc vốn có tính ôn hơi yếu, thì khái quát tính chất của chúng bằng hơi ôn. Ngoài hàn nhiệt ôn lương ra, còn có một loại thuốc bình, đã không ôn nhiệt cũng không hàn lương, có thể nói là một loại tính chất chung gian. Nhưng trên thực tế, có một số vị thuốc tính bình vẫn hơi thiên về ôn hoặc thiên về lương.

“Người bị chứng hàn thì dùng thuốc nhiệt, người bị chứng nhiệt thì dùng thuốc hàn đã ghi chép trong Nội kinh, có thể nói là một nguyên tắc cơ bản chữa bệnh. Cho nên trước hết phải nắm vững hành nhiệt, ôn, lương, bình của dược liệu mới có thể vận dụng đúng đắn dược liệu để phòng ngừa và điều trị bệnh tật. Ví dụ như bệnh thuộc kinh Dương minh xuất hiện các triệu chứng nóng nhiều, mồ hôi ra nhiều, khát nước, mạch hồng là chứng thực nhiệt, thì chỉ có thể dùng thuốc hàn lương như Thạch cao, Trị mẫu để thanh nhiệt tả hỏa. Nếu không nhận rõ hàn nhiệt của dược tính, mà cho uống nhầm thuốc ôn nhiệt, thì không khác nào lửa cháy đổ dầu thêm, làm cho hỏa tà càng bốc lên, tổn thương chân khí và hao kiệt tân dịch. Nếu gặp bệnh, thuộc kinh Thiếu âm phát sinh chứng âm hàn như chân tay quyết nghịch, sắc mặt nhợt nhạt, mạch vị tế, song chỉ muốn ngủ, chỉ có thể dùng thuốc ôn nhiệt như phụ tử, can khương, để khử hàn trợ dương, nếu dùng nhầm thuốc hàn lương, thì chắc chắn sẽ làm cho bệnh tình sấu đi nhanh chóng, thậm chí gây ra tử vong..

Tứ khí ngũ vị
Tứ khí ngũ vị

Ngũ Vị

Ngũ vị, là nói dược liệu có đầy đủ năm vị chua, mặn, ngọt, đắng, cay, ngoài ra còn có vị đạm (nhạt) (trên thực tế có 6 vị). Vị của dược liệu có thể dựa vào vị giác (nếm) để phân biệt. Trong thực tiễn lâu dài, người xưa đã phát hiện giữa vị và tác dụng của vị thuốc có sự liên hệ nhất định, đồng thời tổng kết được một quy luật. Sách Nội kinh có ghi: Cay thì tán (tân tán), chua thì thu (toan thu), ngọt thì hoãn (cam hoãn), đắng thì rắn (khổ kiên), mặn thì mềm (hàm nhuyễn), Sách “Bản thảo tòng tân” của Ngô Nghi Lạc nhà Thanh đã quy nạp vị và tác dụng của thuốc là:

“Những vị thuốc chua thì hay sáp hay thu, vị đắng thì hay tả hay táo hay kiên, vị ngọt thì hay bổ hay hòa, hay hoãn, vị cay thì hay tán hay nhuận hay đi bừa, vị mặn hay đi xuống hay làm mềm vật rắn (nhuyễn kiên), vị nhạt hay lợi khiếu hay thấm hay tiết”.

Ngũ vị cũng là một căn cứ quan trọng chỉ đạo vận dụng dược liệu. Như cay thì hay tán, cho nên thuốc vị cay dùng thích hợp với thời kỳ đầu ngoại cảm để phát tán phong hàn hoặc phong nhiệt, đắng thì hay tả, cho nên thuốc khổ hàn, thích hợp với chứng thực nhiệt để tả hỏa thanh nhiệt, chua thì hay thu liễm thích hợp điều trị các chứng mồ hôi trộm, di tinh, ta chảy kéo dài; mặn thì hay nhuyễn kiên, thích hợp điều trị các chứng đại tiện táo bón, đờm đặc, tràng nhạc; vị ngọt thì hay hoãn hay bổ, thích hợp với bệnh hư nhược; vị nhạt hay thấm hay tiết, thích hợp với chứng thủy thấp.

Có nhiều vị thuốc đều có kiêm vị, ví dụ như Nhục quế tân cam, Huyền sâm khổ hàm, Hương phụ tân hơi khổ cam. Trong tình hình chung, vị thuốc có kiêm vị thì tác dụng cũng tương đối phức tạp.

Giữa ngũ vị với tạng phủ cũng có quan hệ mật thiết. Sách Nội kinh có ghi: “Toan vào can, tân vào phế, khổ vào tâm, hàm vào thận, cam vào tỳ”. Quy luật này chỉ rõ: thuốc có vị toan hay chữa bệnh can, thuốc có vị tân hay chữa bệnh phế, thuốc có vị đắng hay chữa bệnh tâm, thuốc có vị hàm hay chữa bệnh thận, thuốc có vị cam hay chữa bệnh tỷ – Ngoài ra, bào chế thuốc cũng có quan hệ với tác dụng điều tri, như vị thuốc đi vào can dùng dấm sao, vị thuốc đi vào [26] thận dùng nước muối sao, điều trị bệnh mạn tính, hư nhược luyện mật làm viên.

Sách Nội kinh chia ngũ vị làm hai loại lớn là âm dương, cho rằng “tân cam phát tán là dương, toan khổ cho thổ cho tả là âm, vị hàm cho thể cho tả là âm, vị đạm hay thấm hay tiết là dương”. – Căn cứ vào thực tiễn lâu dài, người xưa đã tổng kết được mối liên hệ tương hỗ giữa dược liệu với sinh lý và bệnh lý, dùng tứ khí ngũ vị để quy nạp và giải thích thêm. Ngày nay chúng ta có thể lợi dụng kinh nghiệm của người xưa để nhận thức dược liệu, đồng thời vận dụng vào thực tiễn lâm sàng. Cho nên nhận thức phân biệt và lý giải được tính vị của dược liệu chẳng những có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có giá trị thực tế quan trọng là điều kiện tất yếu học tập vận dụng dược liệu để tiến hành trị chữa bệnh tật..

Tứ khí ngũ vị trong khi học tập trước hết phải biết được tính vị của thuốc, rồi sau đó mới dễ suy xét vị thuốc này rốt cuộc thích hợp với chứng hàn hay chứng nhiệt, chứng biểu hay chứng lý, chứng hư hay chứng thực, chứng âm hay chứng dương cùng với bệnh chứng ở tạng phủ nào. Nói mặt khác, sau khi biện chứng theo bát cương, cần phải căn cứ vào tính vị của thuốc để lựa chọn thuốc thích hợp. Do đó có thể thấy, tính quan trọng của tứ khí ngũ vị trong sách Bản thảo và trong y học lâm sàng.

0362.027.115