Hạ Khô Thảo:
Hạ khô thảo có công dụng thanh nhiệt tả hỏa, tán ứ. Thanh can nhiệt, trị các chứng đau mắt, đỏ mắt, nhức đầu co can hỏa thượng xung
Tên dùng trong đơn thuốc: Hạ khô thảo.
Tên Latin: Spica Prunellae
Tên Pinyin: Xiakucao
Tên tiếng Hoa: 夏枯草
Hoạt chất: Oleanolic acid, ursolic acid, rutin, hyperoside, caffeic acid, vitamin B1, C, K, tannin
Phần cho vào thuốc: Toàn thảo hoặc hoa.
Bào chế: Bỏ đất cát, chọn sạch tạp chất, dùng sống.
Tính vị quy kinh: Vị đắng, cay, tính hàn. Vào hai kinh: can, đởm.
Công dụng: Thanh can hỏa, tiêu uất kết.
Chủ trị: Chữa loa lịch (Tràng nhạc) tiêu hạch, con ngươi [268] mắt đau nặng về đêm, đàn bà bị xích bạch đới (ra khí hư đỏ, trắng).
Ứng dụng và phân biệt: Cái hay đặc biệt của Hạ khô thảo là tuyên thông bài tiết hỏa uất kết ở cân đởm, thông lợi đường vận hành của khí cơ (cơ năng của khí), có thể dùng để chữa loa lịch thuộc khí uất. Nếu là loa lịch thuộc về đởm kết, huyết kết thì nên hóa đờm phá huyết, dùng các vị bối mẫu, bạch giới tử, Xích thược, xuyên khung.
Kiêng kỵ: Người bị âm hư không có uất kết thì cấm dùng.
Liều lượng: Một đồng năm phân đến ba đồng cân.
Bài thuốc ví dụ: Bài Hạ khô thảo cao (Y tông kim giám phương), chữa can vượng huyết táo, loa lịch cứng rắn.
Hạ khô thảo, Đương quy, Bạch thược, Huyền sâm, Ô dược, Triết bối, Cương tàm, Côn bố, Cát cánh, Trần bì, Xuyên khung, Cam thảo, Hương phụ, Hồng hoa, các vị cho vào ấm đất sắc đặc, lọc bỏ bã, lại đổ nước cốt vào ấm đất cho thêm mật ong vào đun nhỏ lửa cổ đặc thành cao, mỗi lần uống một thìa canh, hòa với nước sôi để uống.
Tham khảo: Trừ những thực vật luôn luôn xanh tốt ra, còn lại phần nhiều cây mùa xuân thì xanh tươi, mùa đông thì khô héo, duy chỉ có Hạ khô thảo mùa đông thì xanh tươi, mà hạ thì khô héo. Từ – Linh – Thai (tên là Từ – Đại – Thung, người huyện Ngô Giang đời nhà Thanh) cho rằng chữa bệnh bằng khí hậu. Câu nói rất đúng.