Thận âm hư là gì?
- Theo y học cổ truyền chứng thận âm hư hay còn gọi là chứng Thận thủy bất túc. Là chỉ một cách khái quát âm dịch của tạng thận bị khyu tốn, hư hỏa vượng viêm mà xuất hiện hàng loạt các chứng trạng. Đa phần do nội thương, ốm lâu thận hư hoặc sau khi mắc ôn bệnh nhiệt cực thương âm gây ra
Dấu hiệu nhận biết thận âm hư
- Chứng trạng lâm sàng để nhận biết dấu hiệu chủ yếu của thận âm hư là: hoa mắt chóng mặt, tai ù, ngũ tâm phiền nhiệt, mất ngủ hay mê, hai gò má đỏ, ra mồ hôi trộm, sốt về chiều, miệng khô họng ráo, thân thể gầy còm, lưng gối đau mỏi, gót chân đau nhức.
- Nam giới thì di tinh tảo tiết, dương cường dễ cử. Nữ giới thì băng lậu, hoặc bế kinh, không thụ thai, tiểu tiện vàng, đại tiện táo, chất lưỡi đỏ ít tân dịch hoặc không có rêu, mạch tế xác.
- Chứng thận âm hư thường thấy trong các tật bệnh như Yêu Thống, Di tinh, Huyễn Vậng, Bất Mỵ, Hư lao, Tai ù tai điếc, Tiêu khát, Cao Lâm, Thủy huyết, Băng lậu và các bệnh ôn nhiệt khác.
Đối tượng dễ bị thận âm hư
- Người nghiện tình dục và phòng the không điều độ
- Người bệnh ốm lâu ngày sau khi mắc ôn bệnh
- Người làm việc quá sức, suy kiệt lâu ngày…
Phép điều trị
Chứng thận âm hư ở trong các loại tật bệnh khác nhau thì biểu hiện lâm sàng cũng có chỗ khác nhau, phép điều trị cũng không giống nhau.
- Nếu thấy di tinh, dương sự dễ cử, tảo tiết, đầu choáng váng mắt hoa, tinh thần không phấn chấn… đa phần là do tình dục phóng túng, hư hoa quấy rối tinh thất gây ra, điều trị nên tư Thận âm, tả hư hỏa, cho uống “tri bá địa hoàng hoàn”
- Nếu không ngủ được mà thấy tâm phiền, mất ngủ, mơ mộng phân vân, ngũ tâm phiền nhiệt, đầu choáng váng, tai ù … đa phần là do tư lự quá độ, ước nguyện không thành, âm tinh bị hao tổn ngấm ngầm, Thận âm bất túc, tâm hỏa vượng về một phía gây ra. Điều trị nên tư Thận tráng thủy chế hỏa, an thần định chí, cho uống “Lục vị địa hoàng hoàn” hợp với “Hoàng Liên A Dao thang”
- Nếu bệnh Cao Lâm mà thấy tiểu tiện đục như nước vo gạo, thủy đạo sáp và đau, hoặc tiểu tiện như dầu mỡ, thân thể gầy còm, sức yếu, lưng gối mỏi, chất lưỡi đỏ, rêu lưỡi cáu dầy… đa phần là do phòng lao quá độ, hoặc tình chí bị tổn thương, thận âm khuy tổn, hạ nguyên không cố, các chất mỡ tiết ra bên ngoài, điều trị nên ích Thận cố nhiếp, cho uống ‘Tỳ giải phân thanh ẩm” hợp với “Lục vị địa hoàng hoàn” gia giảm
- Nếu bệnh Hư lao mà thân thể gầy còm, phiền nhiệt, đầu choáng tai ù, tai điếc, hai chân yếu mềm, thần sắc tiều tụy… đa phần là do phú bẩm tiên thiên bất túc, hậu thiên vất vả quá cực, hoặc do ốm lâu không được điều dưỡng, khiến cho chân âm của tạng thận bị bất túc, hư lâu ngày không hồi phục, phát thành chứng Hư lao. Điều trị nên Tư thận điều âm, cho uống “Đại bổ âm hoàn” hoặc “Đại bổ nguyên tiễn”.
- Nếu trong bệnh tiểu tiện ra máu mà thấy đi tiểu tiện ra nhỏ giọt hoặc có lẫn máu, lưng gối đau mỏi, tinh thần mệt mỏi, chất lưỡi đỏ, mạch tế sác, đa phần là do tình dục phóng túng, tướng hỏa vọng động, thận âm khuy hao, âm hư sinh nội nhiệt, nhiệt hun đốt mạch lạc gây ra. Điều trị nên tư âm thanh hỏa, kiêm cả chỉ huyết cho uống “Đại bổ âm hoàn” hợp với “Tiểu tiên ẩm tử”
- Nếu trong bệnh tiêu khát mà thấy tiểu tiện nhiều lần lượng nhiều, nước tiểu như dầu như cao, miệng khô lưỡi đỏ, thân thể gầy còm, mạch trầm tế mà sác thì gọi là “Hạ tiêu” hay là “thận tiêu”. Đa phần do phòng sự không tiết độ, hoặc do uống rượu ăn nhiều đồ dầu mỡ, béo ngọt, thận âm khuy hư, hạ tiêu hư khuy, chế ước mất quyền mà sinh ra. Điều trị nên Tư âm cố thận, cho uống “Lục vị địa hoàng hoàn” nhưng trọng dụng Hoài sơn, Sơn thù nhục…
- Nếu bệnh ôn nhiệt là do nhiệt nhập hạ tiêu, tà nhiệt lưu trú lâu ngày, nhiệt hun đốt chân âm, dẫn đến thận âm khuy hư, xu thế bệnh cấp bách, thấy các chứng thân nhiệt không cao, nhưng lâu ngày không lui, lòng bàn chân tay nóng, thậm chí nóng cả mu bàn chân tay, miệng khô, chất lưỡi đỏ tươi, thậm chí đỏ tối mà khô, hoặc tinh thần mệt mỏi, tai điếc, mạch trầm thực điều trị nên tư âm thanh nhiệt, cho uống Gia giảm “Phục mạch thang”
- Nếu phụ nữ băng lậu mà thấy kinh hành trước kỳ hoạc băng huyết, lậu huyết, lâm ly kéo dài không hết, sắc huyết đỏ tươi, lượng nhiều hoặc Đới hạ keo dính, chất lưỡi đỏ, mạch trầm tế sác…Điều trị nên tư âm lương huyết chỉ huyết, cho uống “Thanh hải hoàn” với “Hoa nhị thạch tán”
Lưu ý: Thông tin trên chỉ mang tính chất tham khảo, người bệnh cần thăm khám để chẩn trị.