Trẻ em bị viêm khí quản cấp và mạn tính

Viêm khí quản là gì?

Trẻ em bị viêm khí quản cấp và mạn tính trong y học cổ truyền gọi là bệnh “Khái thấu”. Là một bệnh rất thường gặp trong lâm sàng Nhi khoa. Khái thấu hay viêm khí quản cấp và mạn tính là do bệnh tà kích thích vào khí quản mà xuất hiện chứng hậu. Như ngoại cảm phong hàn, hoặc phong nhiệt, nôi nhiệt hoặc là do hình thể hư yếu đều có thể làm kích thích khí quản gây nên Khái thấu. Vì vậy Khái thấu tuy là bệnh chủ yếu của Phổi nhưng đều có  quan hệ với các tạng phủ khác. Và cũng là nơi có nhiều nhân tốt của các tạng phủ khác đều có thể ảnh hưởng đến Phế khí mà gây nên Khái thấu.

Viêm khí quản
Vị trí của Khí quản

Nguyên nhân

Trẻ em tấu lý không kín đao rất dễ cảm mạo, biểu tà xâm phạm trước hết phạm vào Phế. Do đó hai mùa Đông, Xuân khí hậu nhiều biến hóa, rất dễ gây nên Khái thấu

Nếu trẻ em tiêu hóa không tốt khiến Tỳ bị thấp làm ngăn trở dễ sinh ra đờm, đờm và thấp cũng đọng lại ở trong  thời phế khí không tuyên thông mà gây nên Khái thấu

Còn như hình thể suy yếu, ho lâu thì tân dịch bị thương sẽ làm hư hỏa bốc lên mà thận khí yếu đi. Thận không nạp khí thời Phế khí càng hư mà khái thấu càng nặng. Đó là Khái thấu thuộc nội thương

Tình huống Khái thấu rất nhiều nhưng nói tóm lại không ngoài hai loại lớn là Ngoại cảm và nội thương.

Phép chữa:

Điều trị ở trẻ em Khái thấu, cơ bản không ngoài ba phép là “Phong thời làm cho tan”, “Thịnh thời làm cho hạ”, Bệnh lâu thời phải bổ” cũng là nói có khi dùng phép phát hãn, có khi dùng phép tả hạ, có khi dùng phép thanh bổ.

Nói chung Khái thấu do phong hàn hoặc phong nhiệt gây nên, chủ yếu thuộc biêu chứng, trong điều trị nên tuyên phát Phế khí, sơ thông tấu lý, khiến cho bệnh lui ra ngoài. Phong từ ngoài biểu tà đi, có thể dùng phép giải biểu. Nếu như không có mồ hôi cũng có thể làm cho ra mồ hôi khiến hàn theo mồ hôi ra mà khỏi cũng là theo ý nói “Phong thời làm cho tan”.

Trẻ em mắc nhiều bệnh đường ruột như tích thực hỏa nhiệt, bụng trướng ăn kém , đờm thấp ngăn trệ khi ho thời hoặc ọe, hoặc thổ. Lại còn hai loại khái thấu “canh năm tảng sáng  ho nhiều là do thực tích trong Vị”. “Buổi sáng ho nhiều là trong Vị có hỏa” hai loại này ở trong cuốn “Đan Khê trị pháp tâm yếu” cho là thuốc về Phế Vị bất hòa, tích nhiệt quá thịnh ở trong. Nếu có thêm chứng đại tiện táo có thể dùng phép hạ, bởi vì “Phế với đại trường là biểu lý”, đương khi thực tích không tiêu hoặc Vị hỏa quá thịnh thường chỉ dùng tả hạ mà nhiệt lui ho khỏi, có cũng là cái ý nói “Thịnh thời làm cho hạ”. Ý nghĩa của tả hạ không phải đơn thuần là thông đại tiện. Dùng phương pháp thanh nhiệt, tả hỏa, lợi tiểu tiện, khiến cho tà khí thải xuống dưới đều là tả hạ nhưng dùng các bài thuốc tả bạch tán, đạo xích tán, đình lịch đại táo tả phế thang…đều thuộc về ý nghĩa “thịnh thời làm cho hạ”.

Còn như Khái thấu không lui, hư nhiệt bốc lên miện ráo họng khô xuất hiện chứng sốt cơn về chiều ho là thuộc Âm hư (Đan khê trị pháp tâm yếu) thời nên dưỡng thận, thanh phế. Nếu khải thấu đoản hơi biếng ăn, ỉa chảy thời nên bổ tỳ ích khí, đó là theo cái ý mắc bệnh lâu thời phải bổ

Sức chống  bệnh của trẻ em thấp, rất dễ cảm mạo lại cũng dễ gây lên khái thấu cho nên nhiều biến chứng. Nhưng nhiều hay ít chỉ là tương đối thôi, Âm Dương cũng vậy “Dương thường có thừa, Âm thường không đủ” Vì vậy giải biểu không nên quá phát tán, tả nhiệt cần chú ý bảo vệ âm, dù gặp chứng có thể hạ cũng chỉ nên hạ nhẹ, không nên hạ mạnh

Khái thấu có mắc đã lâu, bị tạm thời khác nhau mới bị ho phần nhiều là ngoại cảm. Ho đã lâu đa số là nội thương. Khái thấu do ngoại cảm nên chú trọng giải biểu, nhưng nên kèm theo thuốc thanh nhiệt, nóng ở trong với cái tà ở bên ngoài mới có thể đồng thời trừ hết. Khái thấu do nội thương nên chú trọng phép bổ, nhưng nếu có nóng nhẹ cũng nên kèm theo thuốc thanh giải

Trẻ em Phế khí không tuyên thông rất dễ làm cho Tỳ Vị uất nhiệt, thấp nhiệt sinh đờm lại hay ảnh hưởng đến phế khí. Nếu thấp nặng thời tỳ phải khốn đốn, nhiệt nặng thời Vị tổn thương cho nên phải chiếu cố cả Phế và Vị. Và cũng lại chiếu cố cả tỳ bên  cạn sự thanh nhiệt lại nên trừ thấp quét đờm.

Nếu ho lâu không khỏi càng nên chú ý đến tỳ. Do ho lâu không ngừng, Phế khí phải hư, Phế chủ khí, phế hư dẫn đến trung khí không đủ, khi trung khí đã không đủ lại dễ ảnh hưởng đến vận hóa của Tỳ. Tỳ hư mà đờm thấp ngăn trở thời trái lại ảnh hưởng sự “túc giáng” của Phế. Do đó Phế và tỳ có ảnh hưởng lẫn nhau rất chặt chẽ. 

Ngoài hai tạng Phế và Tỳ, còn có thể xuất hiện khái thấu do Phế hư, Can nghịch mà hình thành loại can hỏa nung nấu Phế, nghịch truyền tâm bào mà hình thành loại tâm hỏa làm thương phế. Lại như Phế với Đại trường là biểu lý, Phế là Thượng nguồn của nước, phế khí hư cũng làm cho sự vận truyền và bài tiết không đều. Vì vậy với những tật bệnh mà Khái thấu là chứng  chủ yếu phải chú ý các kèm chứng khác từ đó mà suy nghĩ đến quan hệ của các Tạng phủ khác đối với Phế mới có thể tránh sai sót được cái này hỏng cái kia. Mà theo phương pháp điều trị vẫn là nguyên tắc “Thực thời tả, hư thời bổ” mà tả không chỉ đơn thuần  là tả Phế như có Tâm hỏa thời tả tâm hỏa, Có Can nhiệt thời tả Can nhiệt, có trường nhiệt thời tả trường nhiệt. Bổ cũng vậy, không đơn thuần là Bổ phế, nếu Tỳ hư thì bổ tỳ, Thận hư thời bổ thận. Đương nhiên khái thấu vẫn coi Phế là chủ yếu hơn, vô luận là tả hay bổ nên vận dụng chủ yếu và thứ yếu mà chiếu cố cả chủ yếu, thứ yếu. Nói tóm lại không ngoài ba phương pháp giải biểu, tả hạ và thanh bổ mà căn cứ vào tình huống cụ thê để có phân tích đầy đủ, trong tình huống khác nhau, chọn sử dụng các phương pháp không giống nhau như các phép thanh táo, trừ thấp, tư âm, giáng hỏa, phù tỳ, bổ Thận, tả Đại trường, lợi thủy… đều nên phối hợp mới có thể thu được hiệu quả tốt

0362.027.115